- Lượt xem: 506
-Hy vọng của chúng mình là thế, kết thúc lại là thế! Cay đắng quá. Mà cái số chúng mình không may chút nào, vì một đứa bé thì đem lại lợi gì cho một thằng người, hở? Thôi, hãy bỏ nó lại đây, rồi cứ đường mà về. Chúng mình thuộc cánh nghèo, còn phải nuôi con cái đẻ ra, không thể xén phần bánh của chúng cho con kẻ khác được. Nhưng người bạn đáp:
-Thế sao được. Bỏ đứa bé lại đây để nó chết trong tuyết, thế thì độc ác quá. Tôi cũng nghèo như bác, nhà lại nhiều miệng ăn, chẳng có gì mà cho vào nồi, nhưng mặc, tôi cứ đem nó về nuôi. Nhà tôi sẽ chăm sóc nó. Thế là bác âu yếm bế đứa bé lên, quấn lại chiếc áo quanh người nó để tránh cho nó khỏi bị thấm cái khí lạnh khắc nghiệt, rồi bác đi xuống đồi về làng, trong khi người bạn hết sức ngạc nhiên trước sự dại dột cũng như lòng từ tâm của bác. Tới làng, người bạn nói:
-Bác đã có được đứa bé, vậy hãy dành cho tôi chiếc áo, vì lẽ chia phần với nhau là điều thích đáng thôi. Nhưng bác tiều phu đáp lại:
-Đâu được. Chiếc áo chẳng phải của bác, cũng chẳng phải của tôi, nó là của đứa bé. Nói xong, bác chúc bạn may mắn, rồi đi về nhà mình. Bác gõ cửa, người vợ ra mở, thấy chồng trở về với mình được yên ổn, chị vòng tay ôm lấy cổ chồng mà hôn, rồi chị đỡ lấy bó củi trên lưng bác xuống, phủi tuyết trên đôi ủng của bác rồi giục bác đi vào nhà. Bác nóivới vợ:
-Đây này, tôi đã bắt được món này trong rừng, tôi đem nó về cho mình coi sóc.
-Miệng nói thế nhưng bác vẫn không nhúc nhích khỏi ngưỡng cửa.
-Cái gì vậy?
-Chị vợ kêu lên.
-Cho tôi xem nào! Nhà mình nghèo xác nghèo xơ, thiếu bao nhiêu là thứ. Bác tiều phu bèn kéo chiếc áo ra và chỉ cho vợ xem đứa bé đang ngủ.
-ối trời!
-Người vợ kêu lên.
-Nhà ta con cái nào có thiếu! Thế mà mình lại còn đi rước về một đứa trẻ. Biết đâu nó chẳng đem họa đến cho nhà mình. Mà phải săn sóc nó thế nào đây?
-Chị giận dỗi với chồng.
-Nhà nói thế sao được.
-Người chồng đáp
-Nó là chú bé Sao Băng.
-Rồi bác thuật lại cho vợ nghe bác đã tìm thấy chú một cách lạ lùng như thế nào. Nhưng người vợ vẫn không nguôi giận, lại còn chế giễu, đay nghiến chồng và gào lên:
-Con cái mình thì thiếu cái bỏ vào mồm lại còn phải nuôi báo cô con kẻ khác hay sao? Có ai thương đến chúng mình? Ai đem bánh biếu mình nào?
-Nhà nói thế nghe sao được. Chúa săn sóc ngay cả đến bầy chim sẻ và cho chúng ăn kia mà.
-Thế mùa đông chim sẻ không chết đói lăn ra đấy sao?
-Chị vặn lại.
-Bây giờ không phải là mùa đông đấy nhỉ! Bác tiều phu chẳng đáp lại nửa lời, cứ đứng lì ra ở ngưỡng cửa, không chịu nhúc nhích. Một luồng gió lạnh lướt từ khu rừng thổi thốc vào cánh cửa để mở khiến chị vợ run lên, chị rùng mình bảo chồng:
-Sao mình không chịu đóng cửa lại? Đấy, gió lạnh buốt xương đang lùa vào nhà đấy. Rét ơi là rét!
-Trong một căn nhà có trái tim lạnh giá thì bao giờ gió buốt chả lùa vào, không phải thế sao?
-Người chồng nói. Chị vợ không đáp mà chỉ rón rén bước lại gần bếp lửa.
Và một lát sau, chị xoay người lại, nhìn chồng rồi nước mắt chị trào ra. Thế là bác tiều phu nhanh chân bước vào nhà, trao đứa bé vào tay vợ; chị vợ hôn hít chú, đặt chú vào chiếc giường nhỏ bé ở đó đứa con út của họ đang nằm ngủ. Và ngày hôm sau, bác tiều phu lấy chiếc áo dệt bằng vải quý bỏ vào một chiếc rương to, còn cái vòng bằng mã não đeo ở cổ đứa bé, chị vợ cũng cởi nó ra rồi cũng bỏ nó vào rương. Thế là từ đấy chú bé Sao Băng được nuôi dưỡng với con cái bác tiều phu, ăn cùng bàn, cùng chơi với bọn chúng. Cứ mỗi năm qua, nhìn càng thấy chú xinh đẹp hơn, tất cả dân làng đều hết sức kinh ngạc, vì trong khi họ da ngăm đen và tóc đen thì chú trắng như ngà và thanh tú, tóc chú uốn búp, như những vòng hoa thủy tiên. Đôi môi chú cũng vậy, giống như những cánh hoa đỏ thắm, còn mắt thì nhỏ như những bông hoa tím bên cạnh dòng sông nước trong vắt, thân mình chú như hoa thủy tiên trên một cánh đồng chưa bị thợ gặt đụng tới. Tuy nhiên, vì xinh đẹp cho nên nó đâm ra xấu tính. Nó trở nên kiêu ngạo, độc ác, ích kỷ. Con cái bác và những đứa trẻ khác trong làng bị nó khinh bỉ, vì nó cho rằng chúng thuộc gia đình hèn hạ, còn nó thì thuộc dòng dõi cao quý, xuất thân từ một ngôi sao, và nó tự phong là chủ bọn chúng, xem chúng là tôi tớ của mình. Nó không thương xót chút nào những kẻ nghèo khổ, mù lòa, hoặc những người tàn tật và đau đớn vì một lẽ gì đó; trái lại nó thường ném đá vào họ, xua đuổi họ ra ngoài đường cái, bảo họ hãy đi ăn xin nơi khác; đến nỗi, trừ bọn trộm cướp ra, chẳng có ai đến làng đó ăn xin lần thứ hai. Thật tình, mê mẩn vì mình đẹp, nó sẵn sàng chế nhạo những kẻ ốm yếu và xấu xí, nó đem họ ra làm trò cười; nó chỉ ưa thích bản thân nó, và về mùa hạ, lúc trời lặng gió, nó hay nằm dài cạnh giếng trong vườn cây ăn quả của ông tu sĩ, nhìn xuống nước ngắm khuôn mặt đẹp diệu kỳ của chính nó, rồi cất tiếng cười, thích thú với vẻ đẹp của mình. Bác tiều phu và vợ thường phải quở mắng nó: